Thì hình ảnh data(thông tin) da trắng, mặt xinh đó của Ngọc Trinh, sẽ được truyền thông qua đôi mắt bạn, đưa vào dây thần kinh thị giác, rồi cái data đó, sẽ được xử lý bởi bộ não của bạn. Tạo ra 1 dòng suy nghĩ về hình ảnh data Ngọc Trinh đó, là đẹp hay xấu, so với chuẩn đẹp hay xấu của bạn.
Thì hình ảnh data(thông tin) da trắng, mặt xinh đó của Ngọc Trinh, sẽ được truyền thông qua đôi mắt bạn, đưa vào dây thần kinh thị giác, rồi cái data đó, sẽ được xử lý bởi bộ não của bạn. Tạo ra 1 dòng suy nghĩ về hình ảnh data Ngọc Trinh đó, là đẹp hay xấu, so với chuẩn đẹp hay xấu của bạn.
Nếu bạn là một người hay tự ái thì đừng quá lo lắng, chúng ta có thể chế ngự tính tự ái bằng những cách tư duy dưới đây.
Nếu tự ái thường chỉ tính xấu, mang tính tiêu cực thì ngược lại, tự trọng là phẩm chất đáng quý ở con người. Tự trọng là tự ý thức, đánh giá và nhìn nhận bản thân mình, cả phần tốt lẫn phần xấu, đặc biệt là những giá trị mà bản thân tôn thờ, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa thì cũng không để ai hay điều gì xâm phạm đến những giá trị đó. Nói cách khác, người tự trọng là người biết giữ gìn phẩm giá và danh dự của bản thân.
Cần phải khẳng định rằng tự ái là một tính xấu. Nếu một người sống trong tâm thế tự ái quá lâu sẽ dẫn đến tình trạng tâm lý bất ổn, lo lắng thường xuyên, có thể dễ gặp các bệnh tâm lý như trầm cảm, rối loạn lo âu… Chưa kể, người tự ái thái quá thường cô đơn, ít có cơ hội nhận được sự đồng cảm và sẻ chia từ người khác. Điều này khiến cho tình trạng tâm lý, những bất ổn trong công việc và cuộc sống cá nhân của họ ngày càng nghiêm trọng.
Hơn nữa, tính tự ái không chỉ gây tổn thương sâu sắc đến bạn bè, đồng nghiệp, những người xung quanh mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến người thân của họ, khiến mối quan hệ yêu đương, gia đình ngày càng xa cách.
Người tự ái thường quan niệm rằng mình là trung tâm của mọi thứ, từ công việc, tình yêu, gia đình cho tới các mối quan hệ khác. Họ khao khát sự quan tâm, công nhận và tán dương từ người khác một cách cực đoan. Nếu không bằng lòng với sự chú ý hoặc quan tâm mà mọi người dành cho họ thì ngay lập tức, họ có thể bỏ dở việc, chạy trốn, từ chối việc giao tiếp, coi thường nghĩa vụ, vô trách nhiệm… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tập thể.
Vì luôn cho mình là nhất nên một lẽ đương nhiên, những người dễ tự ái sẽ không chấp nhận được việc có một ai đó nổi bật hơn mình. Họ sẽ sinh lòng đố kỵ với người cướp đi sự chú ý mà đáng lẽ họ phải nhận được. Họ là kiểu người thích nhận hơn là việc cho đi, điển hình nhất là nét tính cách ích kỷ và ganh ghét với sự thành công của người khác. Với họ, việc công nhận sự nỗ lực hay tán thưởng cho thành quả một ai đó là điều hết sức khó khăn.
Hiện nay đa số các hoạt động xã hội hay công việc đều gắn liền với các đội nhóm và tổ chức. Do đó người tự ái cao thường khó hòa nhập và thích nghi vì họ luôn có định kiến với mọi thứ, luôn tìm cách đổ lỗi và thiếu sự đồng cảm với người khác. Dĩ nhiên, họ khó lòng nhận được sự tín nhiệm và yêu quý từ mọi người xung quanh. Chính những điều này đã kìm hãm quá trình học hỏi và tiến thân của họ.
Người tự ái sống trong cảm giác hoài nghi chính mình, bận tâm đến mọi đánh giá hay bình phẩm của người khác về bản thân. Đôi khi, họ còn phải liên tục so sánh mình với mọi người. Vì lẽ đó mà người tự ái ít khi tìm được sự thanh thản trong tâm hồn, dẫn đến tâm lý bất ổn định và những rối loạn về mặt cảm xúc như vui, buồn, giận dỗi thất thường.
Tự ái là tính cách của con người được hình thành ở lứa tuổi thiếu niên và trưởng thành vì trong giai đoạn này nhu cầu khẳng định cái tôi, biểu hiện sự độc lập và tìm kiếm sự công nhận bắt đầu phát triển mạnh. Tuy nhiên, tự ái cao hay những rối loạn liên quan đến tự ái có thể bắt nguồn từ môi trường sống độc hại.
Việc vượt qua tính tự ái và chế ngự nó cần thời gian và cả sự dũng cảm. Hãy bắt đầu với việc tự thừa, chấp nhận lỗi lầm của bản thân và thôi tìm cách bao biện. Hãy xem thất bại là cơ hội để chúng ta học hỏi kinh nghiệm.
Nhiều người chiến thắng luôn tốt hơn một người chiến thắng. Đây là chân lý không thể nào chối cãi vì lúc đó niềm vui sướng và thành quả đạt được sẽ nhân lên gấp nhiều lần. Người tự ái cao nên ghi nhớ điều này, từ đó tập chấp nhận, công nhận sự cố gắng và thành công của người khác.
Thay vì liên tục so sánh bản thân với người khác rồi sinh ra đố kỵ với họ thì hãy tìm hiểu cách thức dẫn họ đến thành công đó. Hãy tập quan sát cách họ làm việc, cách họ sống và ta sẽ nhận ra rằng họ đã nỗ lực rất nhiều, đã đi theo những phương pháp đúng đắn. Từ đó ta sẽ học được sự đồng cảm, chia sẻ, kinh nghiệm thành công và biến đối thủ thành những người thầy của mình.
Tự ái có ở mỗi người, điều quan trọng là hãy học cách kiềm chế cảm xúc, nếu không tính tự ái có thể hủy hoại những mối quan hệ và cả sự nghiệp của chúng ta. Mong rằng qua bài viết trên mọi người đã có thể hiểu rõ tự ái là gì và nó chi phối cuộc sống như thế nào, từ đó có những cách khắc phục phù hợp.
Nhiều cha mẹ nhầm lẫn giữa tự trọng và tự ái sẽ ảnh hưởng lớn tới thành công của trẻ. Ảnh minh hoạ.
Tự trọng và tự ái trong cuộc sống
Nhiều người thường nhầm lẫn giữa lòng tự trọng và tính tự ái. Chính điều này đã làm cho trẻ học theo mà có suy nghĩ lệch lạc.
Lòng tự trọng có cơ sở từ tư tưởng nhân nghĩa, coi trọng phẩm cách và giá trị con người của mình nhưng mục đích là vì người khác, tôn trọng người khác. Họ nhằm làm đẹp cho xã hội, làm tốt cho cộng đồng. Nói cách khác, lòng tự trọng có bản chất văn hóa và tinh thần nhân văn.
Trái lại, tính tự ái là chỉ biết yêu chính bản thân mình, coi mình là trên hết, chỉ cốt được lợi cho riêng mình, bất chấp danh dự và quyền lợi chính đáng của người khác. Vì thế, lòng tự trọng thường được biểu hiện bằng những lời nói, cử chỉ, hành vi lịch thiệp, nhã nhặn, từ tốn, biết tự kiềm chế. Còn tính tự ái lại sinh ra những thói xấu, hẹp hòi, ích kỷ.
Người có lòng tự trọng bởi tiếp thu được sự giáo dục đúng đắn, chu đáo, tốt đẹp trước hết từ ngay trong gia đình mình. Cùng với đó là nhà trường và xã hội. Ba môi trường giáo dục này có trong sáng, lành mạnh và có phương pháp tốt thì mỗi người mới có lòng tự trọng, mới có những phẩm cách tốt đẹp.
Tuy nhiên, bản thân mỗi người cũng phải biết tự giáo dục, tự điều chỉnh hành vi của mình theo truyền thống đạo lý dân tộc và lối sống có văn hóa, mới có thể trở thành con người lương thiện, tử tế.
Chính vì thế, người ta luôn khuyến khích và giáo dục con người trở thành những cá nhân có lòng tự trọng. Người lớn nên khuyên trẻ từ nhỏ cần biết bỏ qua sự tự ái để không ngừng phát triển vươn lên.
Lòng tự trọng là thứ vô cùng quan trọng với mỗi con người. Mỗi đứa trẻ đều không được sinh ra với lòng tự trọng sẵn có. Trẻ học hỏi về lòng tự trong thông qua những việc chúng có thể làm và qua suy nghĩ của bố mẹ về chúng.
Trong việc xây dựng lòng tự trọng cho trẻ, bố mẹ cần gửi các thông điệp thông qua việc dành thời gian cho con, ôm con và cười với con, điều này là vô cùng quan trọng. Đồng thời, cần thường xuyên mỉm cười với con. Người lớn cần hiểu rằng, lòng tự trọng là thứ được học hỏi và có thể thay đổi được.
Nhiều trẻ nhỏ vì sống trong môi trường có người lớn chưa hiểu đúng về tự trọng và tự ái. Từ đó, trẻ lớn lên cũng ít nhiều ảnh hưởng đến sự thành công sau này.
Lấy ví dụ về sự nhầm lẫn giữa tự trọng và tự ái, khi xin việc, nhiều người trẻ cho rằng họ có tự trọng nên không muốn bắt đầu từ những công việc bình thường, thu nhập thấp trong khi sở hữu tấm bằng danh giá. Nhưng điều này thực sự sai lầm. Đó chính là sự tự ái riêng trong chính bản thân, không hề nghĩ đến việc họ chưa có kinh nghiệm gì cả và thị trường việc làm cực kỳ cạnh tranh.
Nên thực tế có nhiều bạn trẻ ra trường đã nhiều năm, cầm trong tay tấm bằng loại giỏi nhưng vẫn không thể có được một công việc tốt. Bởi ngay từ đầu họ đã bị sự tự ái của bản thân làm lu mờ đi nhìn nhận, đánh giá. Còn những người trẻ có lòng tự trọng, họ sẽ nhận thức được giá trị của bản thân nằm ở đâu. Từ đó đưa ra quyết định lựa chọn và tìm kiếm công việc, vị trí phù hợp tùy vào từng thời điểm.
Biểu hiện về mặt xã hội cũng cho thấy được tầm quan trọng của lòng tự trọng và tác hại của sự tự ái đối với giới trẻ đó chính là tệ nạn xã hội. Đây là những thứ có sức cám dỗ khủng khiếp.
Nếu như người tự trọng có khả năng kiểm soát cảm xúc, hành vi của họ tốt thì có thể vượt qua nó, không bị lôi kéo và trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Còn người tự ái thì lại hay thường quá tự cao, dễ nổi nóng nên bị kẻ xấu lợi dụng khích bác và lâu dần dễ bị sa ngã vào nó.
Do đó, đức tính tự trọng có thể được xây dựng thông qua giáo dục tốt, đúng cách. Vì thế, ở trên lớp, giáo viên hãy cho học sinh thấy được tầm quan trọng của lòng tự trọng đối với cuộc sống, công việc và mối quan hệ sau này. Từ đó, hình thành nên một thái độ sống tích cực, luôn biết nỗ lực vươn lên, học hỏi những điều tốt từ người khác. Cha mẹ cũng như thầy cô cần làm gương để các em noi theo.
Cùng với đó, việc giáo dục các em không nên có tính tự ái là cực kỳ cần thiết. Cần phải cho các em học sinh thấy được đây là đức tính xấu, làm ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ gia đình, xã hội và công việc.
Cha mẹ dạy con đúng cách chính là phải biết khiêm nhường, luôn giữ lòng tự trọng của bản thân để làm điều tốt và giữ được năng lượng tích cực. Đừng bao giờ quát mắng, nóng nảy và gia trưởng trong việc giáo dục con cái bởi chúng sẽ học theo rất nhanh. Cũng đừng so sánh con mình với con người khác, việc này lâu dần tạo nên áp lực đối với chúng, đẩy chúng ra xa hơn. Đôi lúc, tự ái trong các con trỗi dậy khiến chúng hành động sai lầm, hậu quả trở nên đáng tiếc.
Đã có rất nhiều câu chuyện về cách giáo dục con cái và việc đặt kỳ vọng quá lớn vào chúng. Một số bậc cha mẹ vì sự tự ái của bản thân, sợ con mình không bằng con người khác nên đã ép chúng học hành với cường độ quá lớn.
Một trong những cách xây dựng lòng tự trọng cho trẻ tốt nhất là để chúng thấy được sự tôn trọng bằng cách nói chuyện với trẻ theo cách mà bạn cho là tốt nhất. Lắng nghe trẻ một cách nghiêm túc. Điều này không có nghĩa là bạn đồng ý với mọi điều trẻ nói.
Trong cuộc sống, tự trọng và tự ái luôn biểu hiện ở những khía cạnh khác nhau và từ đó sự đánh giá, nhìn nhận cũng khác nhau. Ví dụ như cùng một sự việc diễn ra nhưng đối với người có lòng tự trọng sẽ luôn thể hiện sự khách quan, tích cực của họ trong nhìn nhận. Còn người tự ái lại thường nghĩ theo hướng tiêu cực.