Nằm trong chuỗi các hoạt động Chương trình đào tạo phát triển nông nghiệp của Đoàn công tác tỉnh Ninh Bình tại thành phố Asan, Hàn quốc, các học viên đã được tham quan thực tế một số mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các nhà máy chế biến nông sản và chế tạo máy nông nghiệp.
Nằm trong chuỗi các hoạt động Chương trình đào tạo phát triển nông nghiệp của Đoàn công tác tỉnh Ninh Bình tại thành phố Asan, Hàn quốc, các học viên đã được tham quan thực tế một số mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, các nhà máy chế biến nông sản và chế tạo máy nông nghiệp.
Thứ nhất, nguồn vốn đối với NNCNC rất quan trọng. Bởi vậy, rất cần các chính sách từ trung ương đến địa phương tiếp tục sửa đổi theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất tiếp cận được nguồn vốn để làm NNCNC. Thành phố cần rà soát quy trình và ban hành kịp thời, nhanh chóng các văn bản hướng dẫn thi hành, không để chính sách đã có mà chưa thể thực hiện được.
Thứ hai, cần xây dựng cơ chế chính sách phù hợp trong việc khuyến khích người dân, doanh nghiệp đầu tư vốn để ứng dụng CNC, nhất là các chính sách về đất đai, quy hoạch phát triển,…
Về quy hoạch phát triển, thành phố sớm hoàn thành quy hoạch sản xuất NNCNC, chú ý các tiểu vùng sinh thái phù hợp với từng cây trồng, vật nuôi, xây dựng các vùng NNCNC chuyên canh tập trung quy mô lớn, hiện đại ở các địa phương có thế mạnh đặc thù để đảm bảo tính ổn định lâu dài về đất đai. Đồng thời, quy hoạch cần thể hiện rõ nhu cầu của địa phương, xây dựng khung cơ chế, mức thuê, thời gian thuê đất phát triển NNCNC, giới thiệu thế mạnh của từng huyện để kêu gọi nhà đầu tư. Trên cơ sở quy hoạch sẽ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo quỹ đất sạch và xây dựng được hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nói chung và NNCNC nói riêng.
Trong quá trình thỏa thuận thuê, mua đất của doanh nghiệp và hộ nông dân, chính quyền chỉ nên đóng vai trò xúc tác, trung gian hỗ trợ để nông dân yên tâm khi cho thuê hay góp vốn vào doanh nghiệp, có như vậy, doanh nghiệp mới đủ diện tích để đầu tư ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp.
Bên cạnh đó, cũng cần có những chính sách khuyến kinh tế nông hộ trong nông nghiệp (thay vì chỉ khuyến khích doanh nghiệp) làm NNCNC. Để làm được điều đó, rất cần có cơ chế chính sách đặc thù, ưu đãi hơn nữa để khuyến khích nông dân sẵn sàng đầu tư làm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đây chính là khâu then chốt.
Ngoài ra, để có thị trường tiêu thụ cho các mô hình NNCNC, thành phố cần hỗ trợ, khuyến khích các HTX, tổ hợp tác xây dựng các trang website quảng bá sản phẩm, tiếp cận thông tin phản hồi của người tiêu dùng, liên kết với trang thông tin điện tử của huyện… để tạo thế cạnh tranh. Người sản xuất cần xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, kết hợp với tổ chức giới thiệu rộng rãi sản phẩm đến với người tiêu dùng.
Đặc biệt là, cần có giải pháp thực hiện liên kết trong tiêu thụ nông sản chất lượng cao. Các cấp các ngành của thành phố, UBND các huyện, xã quan tâm giúp các HTX, tổ hợp tác, các hộ sản xuất xây dựng mối liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp, các cửa hàng, siêu thị, trường học trên địa bàn huyện và mở rộng trên thành phố, các bếp ăn tập thể,… Quan trọng hơn, cần khuyến khích doanh nghiệp liên kết với nông dân, tổ hợp tác, HTX để tư vấn về quy trình, kỹ thuật, hỗ trợ để tạo ra những chuỗi sản phẩm có giá trị cao. Khi doanh nghiệp liên kết với nông dân sản xuất NNCNC thì bài toán nguồn vốn vay của nông dân cũng được giải quyết, nông dân sẽ tiếp cận vốn vay dễ dàng hơn thông qua sự bảo lãnh của doanh nghiệp liên kết. Như vậy, phát triển NNCNC đòi hỏi vốn rất lớn và đòi hỏi phải có liên kết hình thành chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị nông sản, trong đó trung tâm của chuỗi liên kết phải là doanh nghiệp.
SOME POLICIES AND SOLUTIONS TO PROMOTE THE DEVELOPMENT
OF HI-TECH AGRICULTURE IN HANOI CITY
International and domestic achievements in Vietnam show that high technology is one of the most important tools to increase the added value of agricultural products. Hanoi City’s authorities have issued many mechanisms and policies to support the development of hi-tech agriculture. This article summarizes a number of policies, presents the current development of hi-tech agriculture in Hanoi, thereby proposing some solutions for the development of high-tech agriculture for the city in the coming time.
Keywords: High-tech agriculture, high-tech application, policy, agriculture, Hanoi city.
Việc ứng dụng CNC đã được đẩy mạnh trong sản xuất, chế biến, bảo quản nông sản, cho năng suất vượt trội, giá trị cao, đảm bảo an toàn thực phẩm như: sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao; các trang trại trồng trọt sử dụng giống nuôi cấy mô, giống sạch bệnh, hệ thống tưới tiết kiệm, canh tác cây trồng trong nhà màng, nhà lưới,…
Đến nay, Hà Nội chưa có khu, vùng NNCNC, mới chỉ bước đầu hình thành một số mô hình phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC làm tiền đề cho việc phát triển các vùng nông nghiệp ứng dụng CNC, như mô hình sản xuất rau an toàn, trồng hoa, cây cảnh,... hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa về chăn nuôi bò sữa và sản xuất, chế biến các sản phẩm từ sữa tại Hà Nội.
Về tổ chức sản xuất, Hà Nội hiện có duy nhất 1 doanh nghiệp NNCNC được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận, đó là Công ty TNHH XNK Kinoko Thanh Cao tại xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức, đây là mô hình sản xuất nấm theo công nghệ Nhật Bản với công suất hiện tại 1,5 tấn nấm/ngày, công suất tối đa đạt 3 tấn/ngày; giải quyết việc làm cho 25 lao động với mức lương từ 3,5 - 7 triệu đồng/người/tháng. Về thị trường tiêu thụ, Công ty chỉ phân phối cho 2 đơn vị: Công ty Thực phẩm lý tưởng Việt Nam cho thị trường miền Bắc và 1 đơn vị ở thành phố Hồ Chí Minh. Dự kiến sẽ bán cho các nhà phân phối vào cửa hàng rau sạch, nhà hàng trung - cao cấp, một số siêu thị như Aeon, Vinmart.
Theo số liệu từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, tính đến 2019, địa bàn thành phố có 133 mô hình ứng dụng NNCNC. Trong đó, các địa phương có nhiều mô hình, như: Mê Linh 18 mô hình, Gia Lâm 17 mô hình, Thường Tín 14 mô hình, Thanh Oai 10 mô hình, Sóc Sơn 9 mô hình, Đan Phượng 9 mô hình, Thanh Trì 7 mô hình,... Trong số 133 mô hình, có 45 mô hình kinh tế hợp tác xã (chiếm 33,8% tổng số mô hình ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp), 45 mô hình kinh tế hộ gia đình (chiếm 33,8%) và 16 công ty (chiếm 12%). Trong đó, chỉ có 1 công ty là công ty TNHH XNK Kinoko Thanh Cao được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là doanh nghiệp NNCNC, còn lại các công ty khác là các công ty có ứng dụng CNC ở một số khâu vào sản xuất nông nghiệp nhưng chưa đủ điều kiện công nhận là doanh nghiệp NNCNC. Ngoài ra, một số mô hình sản xuất nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn theo chuỗi như mô hình sản xuất nhóm hộ có liên kết tiêu thụ sản phẩm rau an toàn theo chuỗi với HTX An Phát tại xã Yên Mỹ, Duyên Hà với 39 hộ trên diện tích hơn 2 ha, các hộ sản xuất theo kế hoạch của công ty, công ty thu mua theo giá đã thỏa thuận, HTX An Phát đã được cấp giấy xác nhận chuỗi thực phẩm an toàn,...
Nguồn: Kết quả phỏng vấn Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội (2019)
Về ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trong trồng trọt, có 2 mô hình sản xuất cây giống, 2 mô hình bảo quản nông sản, còn lại là 67 mô hình ứng dụng CNC vào sản xuất các loại rau, hoa và cây ăn quả (chiếm 50,4% tổng số các mô hình có ứng dụng CNC ở Hà Nội), trong đó chủ yếu là các mô hình sản xuất rau: 35 mô hình (26%), cây ăn quả: 15 mô hình (11,3%). Các mô hình này chủ yếu áp dụng các kỹ thuật canh tác vào sản xuất như ứng dụng công nghệ nhà kính, nhà lưới, màng phủ nông nghiệp, lưới tự động, thủy canh, các loại giống mới năng suất cao nhập khẩu từ nước ngoài; công nghệ sinh học, công nghệ tưới tiết kiệm, tưới phun sương,... Một số mô hình có đưa cơ giới hóa vào sản xuất như máy làm đất, máy gieo hạt, máy cấy.
Hiện nay, sản xuất rau của Hà Nội có 127 ha nhà lưới (chiếm 0,75% diện tích sản xuất rau của thành phố), trong đó có 47 ha ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, 7 nhà sơ chế rau với tổng diện tích 750 m2. Trong canh tác hoa có khoảng 150,8 ha bước đầu ứng dụng CNC ở một số khâu. Tổng diện tích nhà màng, nhà lưới của các vùng hoa hiện nay là 68,3 ha, trong đó có 0,1 ha bước đầu ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm. Cây ăn quả có 1.127 ha sản xuất cây ăn quả ứng dụng CNC (chiếm 9,4% tổng diện tích cây ăn quả toàn thành phố), trong đó 634 ha ứng dụng giống chất lượng cao, 372 ha chuối ứng dụng 2 tiêu chí sản xuất NNCNC (giống nuôi cấy mô và bao buồng),... Cây chè có 356 ha (chiếm 10,2%) diện tích sản xuất chè ứng dụng CNC, trong đó: 30 ha ứng dụng đồng bộ CNC, 186 ha sử dụng giống mới giá trị và chất lượng cao, 90 ha sử dụng phân bón sinh học, hữu cơ, thuốc thảo dược, 30 ha ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm,...
Về ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi, hiện có 37 mô hình chăn nuôi (chiếm 27,8% tổng số các mô hình ứng dụng CNC) từng bước áp dụng tự động hóa trong chăn nuôi lợn, bò sữa, gà,..
Trong công tác giống, sử dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo đối với đàn bò (đạt 100% với đàn bò sữa và 80% đối với đàn bò thịt), 83% đối với đàn lợn, công tác thụ tinh nhân tạo gà đang bắt đầu thử nghiệm triển khai thực hiện ở 7 cơ sở. Hệ thống chuồng nuôi sử dụng hệ thống chuồng kín đạt 30% số trại chăn nuôi lợn và gà quy mô lớn. Đối với chăn nuôi bò sữa sử dụng hệ thống làm mát đạt 87%, bò thịt đạt trên 50%. Có 75% số trại bò sữa, 44% số trại chăn nuôi bò thịt, 44% số trại chăn nuôi lợn quy mô lớn ngoài khu dân cư đã sử dụng hầm Biogas, 65% số trại chăn nuôi bò sữa, 45% số trại chăn nuôi bò thịt, 85% số trại chăn nuôi lợn và 85% số trại chăn nuôi gà sử dụng chế phẩm xử lý môi trường trong chăn nuôi.
Về ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản, các mô hình đã ứng dụng làm giàu oxy bằng quạt nước trên diện tích 6.000 ha, sử dụng chế phẩm sinh học trong xử lý môi trường nước trên 9.000 ha và sử dụng công nghệ Biofloc gần 17 ha với tổng số 9 mô hình đang triển khai (chiếm 6,8% tổng số các mô hình ứng dụng CNC ở Hà Nội).
Mô hình nuôi cá ứng dụng CNC, tạo các sông trong ao với hệ thống tạo dòng chảy và sục khí, nuôi các với mật độ cao như ở xã Trầm Lộng, huyện Ứng Hòa; xã Ngọc Hòa, huyện Chương Mỹ, năng suất tăng 6 - 8 lần so với nuôi thông thường, chất lượng cá thịt ngon hơn, giá cao hơn. Năng suất đạt 80 tấn/ha, giá trị 3,5 tỷ đồng/ha, lợi nhuận ước đạt 400 triệu đồng/ha.
Mô hình sông trong ao là mô hình ứng dụng công nghệ nuôi cá của Israel, với bể có thể tích 250 m3 có thể đạt năng suất 25 - 30 tấn/năm, lợi nhuận thu được từ 200 - 300 triệu đồng/bể. Là mô hình có nhiều ưu điểm như dễ dàng kiểm soát được môi trường, bệnh cho động vật thủy sản, kiểm soát chất lượng sản phẩm,...
Đến nay, tỷ lệ ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp của Hà Nội đạt khoảng 30% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của thành phố. Các mô hình ứng dụng CNC cho năng suất cao hơn phương thức sản xuất truyền thống từ 10 - 12% và hiệu quả kinh tế tăng từ 25 - 28%. Các mô hình sản xuất ứng dụng CNC ở Hà Nội đã xuất hiện ngày một nhiều chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ như mô hình rau an toàn ở HTX rau quả sạch Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ; mô hình gà đồi, rau hữu cơ, hoa nhài ở Sóc Sơn; lúa chất lượng cao ở huyện Ứng Hòa; chè an toàn ở huyện Ba Vì,...
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC ở Hà Nội mới chỉ được thực hiện chủ yếu ở từng khâu, chưa ứng dụng CNC đồng bộ, nên phát triển thiếu ổn định. Việc ứng dụng các quy trình canh tác tiên tiến như quy trình sản xuất và quản lý chất lượng nông sản theo tiêu chuẩn VietGap, quy trình quản lý dịch bệnh trên cây trồng, công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học,... chưa đồng bộ. CNC chủ yếu mới thực hiện ở một vài khâu như tưới tiết kiệm theo công nghệ tưới nhỏ giọt, tưới phun sương, canh tác cây trồng trong nhà màng, nhà lưới,... Còn khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến vẫn áp dụng công nghệ thủ công, công nghệ lạc hậu nên năng suất, chất lượng nông sản còn thấp.
Tóm lại, thành phố Hà Nội đã có những chính sách hỗ trợ phát triển NNCNC và đã đạt được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, thành tựu đó chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế là thủ đô, trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị; là nơi hội tụ các điều kiện kinh tế - xã hội đầy đủ nhất để phát triển NNCNC; là nơi tập trung các viện nghiên cứu, các chuyên gia kinh tế và nông nghiệp hàng đầu, số lượng doanh nghiệp, nhất là những tập đoàn lớn có tiềm lực đầu tư hay ngân hàng và các tổ chức quốc tế cũng tập trung khá đông,... Do đó, vẫn cần có một số chính sách đột phá hơn nữa để NNCNC ở thành phố Hà Nội tương xứng với tiềm năng vốn có.